Đảm bảo thông tin thống kê giai đoạn 1955-1975

|

Đảm bảo thông tin thống kê giai đoạn 1955-1975

Trong thời kỳ 1955-1975, ngành Thống kê; đã tổ chức nhiều cuộc điều tra thống kê;, đặc biệt có nhiều cuộc điều tra chuyê;n đề phục vụ cho yê;u cầu công tác quản lý trong thời chiến. Số liệu thu được từ hệ thống báo cáo thống kê; định kỳ cùng với kết quả tổng hợp từ các cuộc điều tra thống kê; đã cung cấp cho Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành ngày càng nhiều thông tin với chất lượng ngày càng cao về tình hình kinh tế - xã hội.
 
Để nắm được thực trạng nền kinh tế nước ta ở thời kỳ khôi phục kinh tế 1955 - 1957, ngay từ khi thành lập, Cục Thống kê; Trung ương đã tổng hợp báo cáo thống kê; phản ánh tình hình chủ yếu về kinh tế - xã hội trình Chính phủ và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước. Để có số liệu báo cáo, ngành Thống kê; đã tổ chức hàng loạt các cuộc điều tra. Số lượng chỉ tiê;u thu thập được rất đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đây là những số liệu cần thiết đã đáp ứng các yê;u cầu về thông tin thống kê; trong giai đoạn khôi phục kinh tế (1955 - 1957).
 
Từ năm 1958, ngành Thống kê; đã tính toán và cung cấp nhiều chỉ tiê;u kinh tế tổng hợp, số lượng chỉ tiê;u cung cấp ngày càng nhiều để phục vụ cho yê;u cầu kiểm tra thực hiện kế hoạch 3 năm, cải tạo và phát tri???n kinh tế, trước mắt là đáp ứng yê;u cầu cải tạo đối với các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh.
 
Đến đầu những năm 60, ngành Thống kê; đã tính được các chỉ tiê;u thống kê; tổng hợp quan trọng như chỉ tiê;u giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, đây là những chỉ tiê;u rất quan trọng trong việc tính toán cân đối trong nền kinh tế quốc dân.
 
Giai đoạn 1961 - 1965, ngành Thống kê; đẩy mạnh thực hiện chế độ báo cáo thống kê; và thực hiện nhiều cuộc điều tra, hệ thống chỉ tiê;u thống kê; ngày càng được mở rộng để thu được số liệu đầy đủ và chi tiết hơn, các chỉ tiê;u thống kê; đã được phân theo thành phần kinh tế (quốc doanh, công tư hợp doanh, cá thể), phân theo Trung ương, địa phương... phản ánh được tương đối đầy đủ kết quả của quá trình phát tri???n kinh tế và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong các ngành kinh tế; tình hình hợp tác hóa nông nghiệp; cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh; tiến độ sản xuất và xây dựng, nhất là trong các ngành kinh tế trọng điểm.
 
Từ năm 1964, ngành Thống kê; đã chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành chủ quản tổ chức xét duyệt hoàn thành kế hoạch Nhà nước, làm báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước hàng năm của các ngành, các địa phương và các đơn vị kinh tế trọng điểm của Nhà nước... Đây là một nhiệm vụ thường xuyê;n mà ngành Thống kê; thực hiện để cung cấp những thông tin cần thiết cho việc xây dựng và chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch Nhà nước của các Bộ, ngành và địa phương.
 
Trong giai đoạn này, ngành Thống kê; đã sưu tầm, khai thác và biê;n soạn được các báo cáo và hệ thống số liệu thống kê; có giá trị như: Thông báo tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước hàng năm; Thông báo tình hình khôi phục cải tạo và phát tri???n kinh tế, phát triển văn hóa; 3 năm khôi phục cải tạo và phát tri???n kinh tế, phát triển văn hóa (xuất bản năm 1959); 5 năm xây dựng kinh tế và văn hóa của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (xuất bản năm 1960), số liệu thống kê; năm 1961, 1962, số liệu thống kê; 1963, 1964, 1965... cung cấp cho các cơ quan quản lý của Nhà nước và các đối tượng sử dụng thông tin của các cấp, các ngành. Nhiều số liệu thống kê; có giá trị của cả nước, từng địa phương, từng ngành về quá trình xây dựng và phát tri???n kinh tế, văn hóa đã đáp ứng được yê;u cầu của Đảng, Nhà nước.
 
Bước sang giai đoạn 1966 - 1975, nhiệm vụ chiến lược giai đoạn này là bảo đảm thực hiện các mục tiê;u cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chống chiến tranh phá hoại. Ngành Thống kê; đã phân tích đánh giá và phản ánh được quá trình củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thực hiện cuộc vận động 3 xây 3 chống, cải tiến quản lý hợp tác xã, đề xuất được một số kiến nghị về cải tiến quản lý các xí nghiệp nói riê;ng và quản lý kinh tế nói chung trong các khâu sản xuất, lưu thông phân phối, quản lý thị trường, giá cả... Những nội dung báo cáo thống kê; cũng đã đáp ứng được các yê;u cầu tăng cường lực lượng quốc phòng.
 
Trong thời kỳ này, ngành Thống kê; đã tổ chức nhiều cuộc điều tra thống kê;, đặc biệt có nhiều cuộc điều tra chuyê;n đề phục vụ cho yê;u cầu công tác quản lý trong thời chiến. Số liệu thu được từ hệ thống báo cáo thống kê; định kỳ cùng với kết quả tổng hợp từ các cuộc điều tra thống kê; đã cung cấp cho Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành ngày càng nhiều thông tin với chất lượng ngày càng cao về tình hình kinh tế - xã hội.
 
Ngành Thống kê; cũng đã sưu tầm, hệ thống hóa số liệu, tổ chức biê;n soạn các tập số liệu thống kê; lịch sử qua các năm, làm căn cứ cho việc xây dựng các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, sử dụng trong việc soạn thảo các văn kiện, báo cáo tổng kết công tác của Đảng, Chính phủ và đáp ứng được yê;u cầu các đối tượng sử dụng khác, như tập số liệu 25 năm nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nhiều tập số liệu khác phản ánh các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
 
 
Công tác tổ chức - cán bộ - đào tạo

Ngày 20/2/1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ số 695/TTg về tổ chức Cục Thống kê; Trung ương (trong Ủy ban Kế hoạch Nhà nước). Chính phủ quy định hệ thống tổ chức của ngành Thống kê; gồm: Ở Trung ương có Cục Thống kê; Trung ương nằm trong Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước; Ở địa phương có Ban Thống kê; Liê;n khu (khu Việt Bắc, khu tự trị Thái Mèo, khu Hồng Quảng), Ban Thống kê; tỉnh, thành phố; Thanh tra Thống kê; huyện, thị; Ở xã có phụ trách Thống kê; xã; Ở các Bộ, ngành có tổ chức thống kê; của Bộ, ngành. Đến năm 1957, theo Nghị định số 142/TTg của Thủ tướng Chính phủ ở các huyện, thị, thành lập các Phòng Thống kê;; ở các xã, thành lập các Ban Thống kê;.

Khi mới thành lập Cục Thống kê; Trung ương, Nhà nước đã điều động một số cán bộ chính trị, cán bộ quân đội chuyển ngành về công tác tại Cục Thống kê; Trung ương. Cục Thống kê; Trung ương lúc đầu chỉ có 12 cán bộ, vừa là cán bộ lãnh đạo vừa là cán bộ nghiệp vụ ở các Phòng Thống kê; nghiệp vụ, sau đó từng bước được bổ sung. Đến cuối năm 1957, số cán bộ làm việc tại Cục Thống kê; Trung ương đã có trê;n 100 người, số cán bộ này được bổ sung từ các nguồn khác nhau. Ở các Chi cục Thống kê; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, số lượng cán bộ thống kê; huyện, thị được tăng cường đáng kể (đến cuối năm 1957 đã có trê;n 400 cán bộ thống kê; huyện, thị).

Tổ chức của ngành Thống kê; đã có một bước phát triển quan trọng từ khi có Nghị định số 131/CP ngày 29/9/1961 của Chính phủ về Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Tổng cục Thống kê;. Tổng cục Thống kê; là một cơ quan thuộc Chính phủ với các nhiệm vụ và quyền hạn đã được Nhà nước giao.

Các Vụ Thống kê; nghiệp vụ có các Phòng Thống kê; nghiệp vụ. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các Chi cục Thống kê; tỉnh, thành phố. Trong giai đoạn 1961 - 1965, bê;n cạnh việc xây dựng hoàn chỉnh bộ máy, Tổng cục Thống kê; còn tập trung nhiều công sức xây dựng bộ máy thống kê; ở địa phương, nhất là thống kê; huyện, xã. Đến cuối năm 1965, toàn miền Bắc có 26 Chi cục Thống kê; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hàng trăm Phòng Thống kê; huyện, thị. Đặc biệt, trong giai đoạn này còn có Phòng Thống kê; đặc khu Vĩnh Linh (khu vực giáp giới tuyến quân sự tạm thời phân chia hai miền Nam, Bắc).

Từ năm 1974, ngành Thống kê; bước vào thời kỳ tổ chức và hoạt động theo Nghị định số 72/CP của Hội đồng Chính phủ (ban hành Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Tổng cục Thống kê;). Tổng cục Thống kê; là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm tổ chức và quản lý thống nhất công tác hạch toán kế toán và thống kê;. 
 
P.V (Sưu tầm)
Link Tải APP Fruity Candy Entertainment